Bộ trưởng Bộ Nội vụ có được chuyển công việc thuộc thẩm quyền của mình lên Thủ tướng Chính phủ hay không?
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ có được chuyển công việc thuộc thẩm quyền của mình lên Thủ tướng Chính phủ hay không?
- Những công việc đã giao cho Thứ trưởng thì có thuộc phạm vi giải quyết của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hay không?
- Trường hợp những vấn đề quy định phải thảo luận tập thể nhưng cần quyết định gấp thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ xử lý như thế nào?
Bộ trưởng Bộ Nội vụ có được chuyển công việc thuộc thẩm quyền của mình lên Thủ tướng Chính phủ hay không?
Căn cứ khoản 1 Điều 3 Quy chế làm việc của Bộ Nội vụ ban hành kèm theo Quyết định 1079/QĐ-BNV năm 2012 quy định về trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Bộ trưởng Bộ Nội vụ như sau:
Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Bộ trưởng
1. Trách nhiệm giải quyết công việc của Bộ trưởng:
a) Chỉ đạo, điều hành Bộ thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo đúng quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ, Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/8/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; đề cao trách nhiệm cá nhân, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao (kể cả việc được uỷ quyền), không chuyển công việc thuộc nhiệm vụ, thẩm quyền của mình lên Thủ tướng Chính phủ hoặc chuyển cho các cơ quan khác; không giải quyết các công việc ngoài chức trách, nhiệm vụ và thẩm quyền của mình;
b) Chịu trách nhiệm cá nhân trước Quốc hội, trước Chính phủ, trước Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ công việc thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của mình, kể cả khi đã phân công hoặc uỷ nhiệm cho các Thứ trưởng;
...
Như vậy, theo quy định thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ không được chuyển công việc thuộc nhiệm vụ, thẩm quyền của mình lên Thủ tướng Chính phủ hoặc chuyển cho các cơ quan khác.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ có được chuyển công việc thuộc thẩm quyền của mình lên Thủ tướng Chính phủ hay không? (Hình từ Internet)
Những công việc đã giao cho Thứ trưởng thì có thuộc phạm vi giải quyết của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hay không?
Căn cứ khoản 2 Điều 3 Quy chế làm việc của Bộ Nội vụ ban hành kèm theo Quyết định 1079/QĐ-BNV năm 2012 quy định về trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Bộ trưởng Bộ Nội vụ như sau:
Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Bộ trưởng
...
2. Phạm vi giải quyết công việc của Bộ trưởng:
a) Những công việc thuộc thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Quy chế làm việc của Chính phủ, các văn bản pháp luật khác và các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao;
b) Giải quyết theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm về quyết định của mình đối với những đề nghị của Bộ, ngành, địa phương liên quan đến những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền quản lý nhà nước của mình, kể cả các vấn đề còn có ý kiến khác nhau;
c) Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
d) Tham gia ý kiến với các Bộ, ngành, địa phương để giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của cơ quan đó, nhưng có liên quan đến chức năng, ngành, lĩnh vực mình quản lý;
đ) Trực tiếp giải quyết một số việc đã giao cho Thứ trưởng, nhưng do thấy cần thiết vì nội dung vấn đề cấp bách, quan trọng hay do Thứ trưởng đi công tác vắng, những việc liên quan đến từ hai Thứ trưởng trở lên nhưng các Thứ trưởng có ý kiến khác nhau;
e) Khi vắng mặt và nếu thấy cần thiết, Bộ trưởng ủy nhiệm một Thứ trưởng lãnh đạo công tác, giải quyết công việc của Bộ theo đúng quy định tại Điều 29 Luật Tổ chức Chính phủ.
...
Như vậy, những công việc đã giao cho Thứ trưởng thì vẫn thuộc phạm vi giải quyết của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong các trường hợp sau:
(1) Bộ trưởng nhận thấy cần thiết vì nội dung vấn đề cấp bách, quan trọng;
(2) Thứ trưởng đi công tác vắng;
(3) Những việc liên quan đến từ hai Thứ trưởng trở lên nhưng các Thứ trưởng có ý kiến khác nhau.
Trường hợp những vấn đề quy định phải thảo luận tập thể nhưng cần quyết định gấp thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ xử lý như thế nào?
Căn cứ khoản 4 Điều 3 Quy chế làm việc của Bộ Nội vụ ban hành kèm theo Quyết định 1079/QĐ-BNV năm 2012 quy định về trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Bộ trưởng như sau:
Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Bộ trưởng
...
đ) Những vấn đề về ký kết và tham gia các điều ước quốc tế, kế hoạch thực hiện các cam kết bảo đảm hội nhập quốc tế;
e) Các chương trình, dự án trọng điểm của ngành;
g) Ngân sách, phân bổ ngân sách; phân bổ và điều chỉnh các nguồn vốn đầu tư hàng năm;
h) Công tác tổ chức bộ máy và nhân sự của Bộ Nội vụ;
i) Những vấn đề khác mà Bộ trưởng thấy cần thiết phải đưa ra thảo luận.
4. Đối với những vấn đề quy định phải thảo luận tập thể nhưng cần quyết định gấp mà không có điều kiện thảo luận tập thể, theo chỉ đạo của Bộ trưởng, đơn vị chủ trì đề án gửi hồ sơ xin ý kiến từng Thứ trưởng và tổng hợp, trình Bộ trưởng quyết định.
Sau khi các Thứ trưởng đã có ý kiến, Bộ trưởng là người đưa ra quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Như vậy, đối với những vấn đề quy định phải thảo luận tập thể nhưng cần quyết định gấp mà không có điều kiện thảo luận tập thể thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ chỉ đạo đơn vị chủ trì đề án gửi hồ sơ xin ý kiến từng Thứ trưởng và tổng hợp, trình Bộ trưởng quyết định.
Sau khi các Thứ trưởng đã có ý kiến, Bộ trưởng là người đưa ra quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Thuế có phải là một khoản nộp bắt buộc? Trách nhiệm của người nộp thuế trong việc nộp tiền thuế là gì?
- Hợp tác xã có phải đối tượng được Nhà nước hỗ trợ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hay không?
- Hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được xây dựng để làm gì? Thông tin trong hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được điều chỉnh khi nào?
- Viên chức lý lịch tư pháp hạng I, hạng II, hạng III có nhiệm vụ và tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ thế nào?
- Mã số thông tin của công trình xây dựng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng được khởi tạo khi nào?