Có được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù ngoài Tết Nguyên đán, lễ 30/4, lễ 2/9 không? Ai có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù?
Ngoài Tết Nguyên đán, lễ 30/4, lễ 2/9 còn trường hợp nào được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù không?
Căn cứ tại khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy định về thời điểm xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù như sau:
Việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được thực hiện mỗi năm 03 (ba) đợt, vào các dịp: Ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), ngày Quốc khánh (2/9) và tết Nguyên đán. Đối với các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, thực hiện việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù vào dịp ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và ngày hội quốc phòng toàn dân (22/12) thay cho dịp tết Nguyên đán.
Như vậy, trong năm có 3 đợt xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là Tết Nguyên đán, lễ 30/4 và lễ 2/9 (trừ các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng).
Có được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù ngoài Tết Nguyên đán, lễ 30/4, lễ 2/9 không? (Hình từ Internet)
Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC cũng nêu rõ đối với những trường hợp đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà trong năm đó lại lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì việc đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù không phụ thuộc vào thời điểm quy định nêu trên.
Như vậy, ngoài 3 đợt xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù kể trên thì có 2 trường hợp sẽ được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù không phụ thuộc vào thời điểm trên là: lập công và mắc bệnh hiểm nghèo.
Điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là gì?
Căn cứ tại Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy định về điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù như sau:
(1) Phạm nhân có đủ các điều kiện sau đây thì được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:
Đã chấp hành được ít nhất một phần ba thời hạn đối với hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười hai năm đối với tù chung thân;
Có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau:
- Phạm nhân bị phạt tù chung thân phải có ít nhất bốn năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm thời hạn được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có ít nhất năm năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
- Phạm nhân bị phạt tù trên hai mươi năm đến ba mươi năm phải có ít nhất ba năm sáu tháng liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
- Phạm nhân bị phạt tù trên mười lăm năm đến hai mươi năm phải có ít nhất ba năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
- Phạm nhân bị phạt tù trên mười năm đến mười lăm năm phải có ít nhất hai năm liên tục liền kề hoặc tám quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
- Phạm nhân bị phạt tù trên năm năm đến mười năm phải có ít nhất một năm hoặc bốn quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
- Phạm nhân bị phạt tù trên ba năm đến năm năm phải có ít nhất sáu tháng hoặc hai quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;
- Phạm nhân bị phạt tù ba năm trở xuống phải có ít nhất một quý gần nhất được xếp loại từ khá trở lên.
(2) Phạm nhân được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt hoặc người chưa thành niên phạm tội, so với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC còn thiếu một năm đầu tiên xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên của thời gian liền kề thời điểm xét giảm (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên mười lăm năm trở lên), thiếu một kỳ sáu tháng đầu tiên xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên năm năm đến mười lăm năm), thiếu một quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên ba năm đến năm năm) hoặc chưa được xếp loại chấp hành án phạt tù (đối với phạm nhân bị phạt tù từ ba năm trở xuống) nhưng thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc ở trại giam được nhận xét là chấp hành nghiêm chỉnh Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ và có đủ các điều kiện khác thì vẫn có thể được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
(3) Phạm nhân có đủ điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, phạm nhân thuộc trường hợp đặc biệt hoặc người chưa thành niên phạm tội có số kỳ được xếp loại từ khá trở lên bằng hoặc nhiều hơn so với quy định tại điểm b khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC nhưng không liên tục, vẫn có thể được xem xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu có ít nhất hai kỳ sáu tháng liên tục liền kề với thời điểm đề nghị xét giảm được xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù trên mười năm) hoặc hai quý liên tục được xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ mười năm trở xuống).
(4) Phạm nhân có tiền án phải có thời gian thử thách nhiều hơn và có số kỳ xếp loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những phạm nhân chưa có tiền án, ứng với mỗi tiền án là một kỳ sáu tháng xếp loại từ khá trở lên. Đối với phạm nhân bị phạt tù từ 3 năm trở xuống, ứng với mồi tiền án là một quý xếp loại từ khá trở lên.
(5) Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù phải liên tục được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giám thời hạn đúng đợt. Trường hợp không đủ điều kiện để được xét giảm đúng đợt thì được xem xét, đề nghị giảm thời hạn khi có đủ bốn quý xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên (trong đó phải có ít nhất hai quý liền kề thời điểm xét giảm).
(6) Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ bị xử lý kỷ luật, sau khi được Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện công nhận đã cải tạo tiến bộ và có đủ bốn quý liền kề (đối với phạm nhân bị kỷ luật khiển trách hai lần trong kỳ xếp loại hoặc kỷ luật cảnh cáo) hoặc năm quý liền kề (đối với phạm nhân bị giam tại buồng kỷ luật) được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên thì mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
(7) Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp hành được ít nhất hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu là tù chung thân và phải có đủ điều kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
(8) Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù hoặc người đang được áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc được bảo lưu kết quả chấp hành án phạt tù và được tính liên tục liền kề với thời gian sau khi trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án.
+ Khi những người này trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án, nếu có đủ điều kiện quy định tại các khoản nêu trên của Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC và trong thời gian được tạm đình chỉ hoặc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, được chính quyền địa phương nơi người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù về cư trú hoặc cơ sở y tế điều trị cho người được áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc xác nhận thì mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
Ai có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù? Thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt tù ra sao?
Căn cứ tại Điều 38 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định về thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt tù như sau:
Thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
1. Cơ quan có thẩm quyền quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 36 của Luật này có quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
2. Cơ quan có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có trách nhiệm lập hồ sơ và chuyển cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án xem xét, quyết định, đồng thời gửi 01 bộ hồ sơ đến Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án. Hồ sơ bao gồm:
a) Bản sao bản án; trường hợp xét giảm án từ lần hai thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án;
b) Văn bản của cơ quan có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù;
c) Kết quả xếp loại chấp hành án phạt tù theo quý, 06 tháng, 01 năm; quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc phạm nhân lập công;
d) Kết luận của bệnh viện, hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật đối với trường hợp phạm nhân bị bệnh hiểm nghèo hoặc tài liệu thể hiện phạm nhân là người quá già yếu;
đ) Bản sao quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với trường hợp đã được giảm;
e) Tài liệu chứng minh kết quả bồi thường nghĩa vụ dân sự của người được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án thành lập Hội đồng và tổ chức phiên họp để xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Thành phần Hội đồng gồm 03 Thẩm phán; phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp hồ sơ phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.
4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người chấp hành án, cơ quan đề nghị giảm thời hạn chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có trụ sở, Bộ Ngoại giao trong trường hợp người được giảm thời hạn chấp hành án là người nước ngoài.
5. Việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được thực hiện mỗi năm 03 đợt. Người chấp hành án mỗi năm chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành án 01 lần. Trường hợp sau khi được giảm thời hạn chấp hành án mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm tiếp nhưng không quá 02 lần trong 01 năm.
Như vậy, thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt tù sẽ được thực hiện theo quy định trên và thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thuộc về:
- Trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Mẫu xác nhận kết quả giao dịch chứng khoán tại Tổng Công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam?
- Mẫu đơn đăng ký nhu cầu hỗ trợ hợp tác xã mới nhất theo Nghị định 113? Hồ sơ đăng ký nhu cầu hỗ trợ bao gồm gì?
- Mức cho vay nội bộ tối đa của hợp tác xã là bao nhiêu? Lãi suất áp dụng đối với khoản nợ vay quá hạn thế nào?
- Mẫu bản nhận xét đánh giá cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân mới nhất? Hướng dẫn cách viết bản nhận xét?
- Cơ sở dữ liệu về quy hoạch xây dựng gồm các thông tin nào? Phân loại thông tin trong cơ sở dữ liệu về quy hoạch xây dựng?