Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra được doanh nghiệp trong nước lưu trữ có phải là dữ liệu cá nhân nhạy cảm hay không?
- Doanh nghiệp trong nước có bắt buộc phải lưu trữ dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra hay không?
- Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra được doanh nghiệp trong nước lưu trữ có phải là dữ liệu cá nhân nhạy cảm hay không?
- Việc hợp tác quốc tế về bảo vệ dữ liệu cá nhân được quy định như thế nào?
Doanh nghiệp trong nước có bắt buộc phải lưu trữ dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra hay không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định 53/2022/NĐ-CP thì Doanh nghiệp trong nước lưu trữ dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định 53/2022/NĐ-CP tại Việt Nam, cụ thể như sau:
Lưu trữ dữ liệu, đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam
1. Dữ liệu phải lưu trữ tại Việt Nam:
a) Dữ liệu về thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam;
b) Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra: Tên tài khoản sử dụng dịch vụ, thời gian sử dụng dịch vụ, thông tin thẻ tín dụng, địa chỉ thư điện tử, địa chỉ mạng (IP) đăng nhập, đăng xuất gần nhất, số điện thoại đăng ký được gắn với tài khoản hoặc dữ liệu;
c) Dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam: bạn bè, nhóm mà người sử dụng kết nối hoặc tương tác.
2. Doanh nghiệp trong nước lưu trữ dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều này tại Việt Nam.
Như vậy, dựa vào quy định trên, doanh nghiệp trong nước phải lưu trữ dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra: Tên tài khoản sử dụng dịch vụ, thời gian sử dụng dịch vụ, thông tin thẻ tín dụng, địa chỉ thư điện tử, địa chỉ mạng (IP) đăng nhập, đăng xuất gần nhất, số điện thoại đăng ký được gắn với tài khoản hoặc dữ liệu.
Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra được doanh nghiệp trong nước lưu trữ có phải là dữ liệu cá nhân nhạy cảm hay không?
Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra được doanh nghiệp trong nước lưu trữ có phải là dữ liệu cá nhân nhạy cảm hay không? (Hình từ Internet)
Căn cứ tại điểm khoản 4 Điều 2 Nghị định 13/2023/NĐ-CP về dữ liệu nhạy cảm như sau:
Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
...
4. Dữ liệu cá nhân nhạy cảm là dữ liệu cá nhân gắn liền với quyền riêng tư của cá nhân mà khi bị xâm phạm sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân gồm:
a) Quan điểm chính trị, quan điểm tôn giáo;
b) Tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án, không bao gồm thông tin về nhóm máu;
c) Thông tin liên quan đến nguồn gốc chủng tộc, nguồn gốc dân tộc;
d) Thông tin về đặc điểm di truyền được thừa hưởng hoặc có được của cá nhân;
đ) Thông tin về thuộc tính vật lý, đặc điểm sinh học riêng của cá nhân;
e) Thông tin về đời sống tình dục, xu hướng tình dục của cá nhân;
g) Dữ liệu về tội phạm, hành vi phạm tội được thu thập, lưu trữ bởi các cơ quan thực thi pháp luật;
h) Thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các tổ chức được phép khác, gồm: thông tin định danh khách hàng theo quy định của pháp luật, thông tin về tài khoản, thông tin về tiền gửi, thông tin về tài sản gửi, thông tin về giao dịch, thông tin về tổ chức, cá nhân là bên bảo đảm tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;
i) Dữ liệu về vị trí của cá nhân được xác định qua dịch vụ định vị;
k) Dữ liệu cá nhân khác được pháp luật quy định là đặc thù và cần có biện pháp bảo mật cần thiết.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 5 Điều 2 Nghị định 53/2022/NĐ-CP thì Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra được định nghĩa là dữ liệu về thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự phản ánh quá trình tham gia, hoạt động, sử dụng không gian mạng của người sử dụng dịch vụ và các thông tin về thiết bị, dịch vụ mạng sử dụng để kết nối với không gian mạng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài ra, như đã phân tích ở trên thì doanh nghiệp trong nước phải lưu trữ dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra: Tên tài khoản sử dụng dịch vụ, thời gian sử dụng dịch vụ, thông tin thẻ tín dụng, địa chỉ thư điện tử, địa chỉ mạng (IP) đăng nhập, đăng xuất gần nhất, số điện thoại đăng ký được gắn với tài khoản hoặc dữ liệu.
Như vậy, Dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra được doanh nghiệp trong nước lưu trữ có thể được xem là dữ liệu cá nhân nhạy cảm nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 13/2023/NĐ-CP.
Từ đó, doanh nghiệp cần rà soát và phân loại các loại dữ liệu mà mình phải lưu trữ để có thể có biện pháp xử lý dữ liệu phù hợp.
Việc hợp tác quốc tế về bảo vệ dữ liệu cá nhân được quy định như thế nào?
Việc hợp tác quốc tế về bảo vệ dữ liệu cá nhân được quy định tại Điều 7 Nghị định 13/2023/NĐ-CP như sau:
- Xây dựng cơ chế hợp tác quốc tế để tạo điều kiện cho việc thực thi có hiệu quả pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Tham gia tương trợ tư pháp về bảo vệ dữ liệu cá nhân của các quốc gia khác, bao gồm thông báo, đề nghị khiếu nại, trợ giúp điều tra và trao đổi thông tin, với các biện pháp bảo vệ thích hợp để bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo, nghiên cứu khoa học và thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế trong việc thực thi pháp luật để bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Tổ chức các cuộc gặp song phương, đa phương, trao đổi kinh nghiệm xây dựng pháp luật và thực tiễn bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Chuyển giao công nghệ phục vụ bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Thuế có phải là một khoản nộp bắt buộc? Trách nhiệm của người nộp thuế trong việc nộp tiền thuế là gì?
- Hợp tác xã có phải đối tượng được Nhà nước hỗ trợ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hay không?
- Hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được xây dựng để làm gì? Thông tin trong hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được điều chỉnh khi nào?
- Viên chức lý lịch tư pháp hạng I, hạng II, hạng III có nhiệm vụ và tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ thế nào?
- Mã số thông tin của công trình xây dựng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng được khởi tạo khi nào?