Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ xây dựng trên cơ sở nào? Xây dựng hệ thống xếp hạn tín dụng nội bộ nhằm mục đích gì?
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ xây dựng trên cơ sở nào?
Căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 5 Thông tư 31/2024/TT-NHNN có quy định như sau:
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
1. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là hệ thống gồm:
a) Các bộ chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, các quy trình đánh giá khả năng trả nợ, thanh toán của khách hàng trên cơ sở định tính và định lượng về mặt tài chính, tình hình kinh doanh, quản trị, uy tín của khách hàng, kể cả khách hàng là đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng; các thông tin về người có liên quan của khách hàng là đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
b) Phương pháp đánh giá xếp hạng cho từng nhóm đối tượng khách hàng khác nhau.
2. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải được xây dựng theo các nguyên tắc sau:
a) Xây dựng trên cơ sở số liệu, thông tin của tất cả khách hàng đã thu thập được trong thời gian ít nhất 01 (một) năm liền kề trước năm xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ;
b) Ít nhất mỗi năm một lần, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải được xem xét, đánh giá trên cơ sở số liệu, thông tin khách hàng thu thập được trong năm; ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng thực hiện sửa đổi, bổ sung hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (nếu cần thiết);
c) Có quy định các mức xếp hạng tương ứng với mức độ rủi ro từ thấp đến cao;
d) Được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên (đối với ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng), Tổng giám đốc hoặc Giám đốc (đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phê duyệt áp dụng.
...
Theo đó, hệ thống xếp phải được xây dựng trên cơ sở số liệu, thông tin của tất cả khách hàng đã thu thập được trong thời gian ít nhất 01 (một) năm liền kề trước năm xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ xây dựng trên cơ sở nào? Xây dựng hệ thống xếp hạn tín dụng nội bộ nhằm mục đích gì? (Hình từ Internet)
Ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm mục đích gì?
Căn cứ theo khoản 3 Điều 5 Thông tư 31/2024/TT-NHNN có quy định như sau:
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
...
3. Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để xếp hạng khách hàng theo định kỳ và khi cần thiết, làm cơ sở cho việc xét duyệt cấp tín dụng, quản lý chất lượng tín dụng, xây dựng chính sách dự phòng rủi ro phù hợp với phạm vi hoạt động, đối tượng khách hàng và tình hình thực tế của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng không bắt buộc phải có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Trường hợp tổ chức tín dụng phi ngân hàng xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ thì phải đáp ứng các quy định tại Thông tư này.
4. Trong thời hạn 10 (mười) ngày kể từ ngày ban hành, sửa đổi, bổ sung hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải gửi trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính hoặc phương tiện điện tử cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều này các văn bản sau:
a) Đối với trường hợp ban hành mới:
(i) Văn bản báo cáo về việc ban hành, áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ;
(ii) Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, tài liệu mô tả về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, quy trình thu thập thông tin, số liệu về khách hàng, xếp hạng khách hàng;
(iii) Hướng dẫn sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, bao gồm cả việc phân cấp, ủy quyền trong việc thu thập thông tin, số liệu về khách hàng, xếp hạng khách hàng;
b) Đối với trường hợp sửa đổi, bổ sung:
(i) Văn bản báo cáo về việc sửa đổi, bổ sung hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, trong đó báo cáo rõ lý do sửa đổi, bổ sung;
(ii) Các văn bản sửa đổi, bổ sung hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và hướng dẫn sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
...
Như vậy, ngân hàng thương mại cần phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để xếp hạng khách hàng theo định kỳ và khi cần thiết, làm cơ sở cho việc xét duyệt cấp tín dụng, quản lý chất lượng tín dụng, xây dựng chính sách dự phòng rủi ro phù hợp với phạm vi hoạt động, đối tượng khách hàng và tình hình thực tế của ngân hàng thương mại.
Nội dung của việc thu thập số liệu, thông tin khách hàng và công nghệ thông tin gồm những gì?
Căn cứ theo Điều 4 Thông tư 31/2024/TT-NHNN có quy định như sau:
Theo đó, nội dung của việc thu thập số liệu, thông tin khách hàng và công nghệ thông tin sẽ bao gồm:
(1) Ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng có biện pháp và thường xuyên thực hiện việc thu thập, khai thác thông tin, số liệu về khách hàng, bao gồm cả thông tin từ Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC), công ty thông tin tín dụng theo quy định của pháp luật để:
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý nợ, chính sách dự phòng rủi ro;
- Theo dõi, đánh giá tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng sau khi đã xếp hạng theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, có biện pháp quản lý rủi ro, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp;
- Thực hiện tự phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định tại Thông tư này và thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự phòng rủi ro theo quy định tại Nghị định về trích lập dự phòng rủi ro.
(2) Ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng phải xây dựng hệ thống công nghệ thông tin trong toàn hệ thống đáp ứng yêu cầu quản lý số liệu, thông tin khách hàng, vận hành và quản lý hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, quản trị rủi ro, thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Tải mẫu chương trình khung đào tạo lái xe 2025? Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ quy định đào tạo lái xe thế nào?
- Năm 2025, ngồi sau xe máy không đội mũ bảo hiểm xử phạt bao nhiêu theo Nghị định 168? Ngồi sau xe máy phải đội mũ bảo hiểm thế nào?
- Điều chỉnh chương trình đầu tư công được thực hiện trong những trường hợp nào theo Luật Đầu tư công?
- Người có mặt tại nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông đường bộ có trách nhiệm như thế nào theo quy định?
- Trong Đại thắng mùa Xuân 1975, có một chiến công đặc biệt xuất sắc khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, đó là chiến công nào?