Khi thấy có đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thì Kiểm sát viên cần báo cáo với ai để ra quyết định này?
- Khi thấy có đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thì Kiểm sát viên cần báo cáo với ai để ra quyết định này?
- Việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn phúc thẩm vụ án hình sự của Kiểm sát viên được thực hiện như thế nào?
- Việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được áp dụng theo thủ tục rút gọn khi có những điều kiện nào?
Khi thấy có đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thì Kiểm sát viên cần báo cáo với ai để ra quyết định này?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 49 Quy chế Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (sau đây gọi chung là Quy chế) ban hành kèm theo Quyết định 505/QĐ-VKSTC năm 2017 quy định như sau:
Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn
1. Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, Kiểm sát viên thấy có đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại khoản 2 Điều 456 Bộ luật Tố tụng hình sự thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát để đề nghị Chánh án Tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
...
Theo đó, khi thấy có đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thì Kiểm sát viên cần báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát để đề nghị Chánh án Tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
Áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn phúc thẩm vụ án hình sự (Hình từ Internet)
Việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn phúc thẩm vụ án hình sự của Kiểm sát viên được thực hiện như thế nào?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 49 Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 505/QĐ-VKSTC năm 2017 quy định như sau:
Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn
...
2. Việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn phúc thẩm được thực hiện theo Điều 464 và Điều 465 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 3 và khoản 4 Điều 35 Quy chế này.
Và căn cứ theo khoản 3, khoản 4 Điều 35 Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 505/QĐ-VKSTC năm 2017 quy định như sau:
Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn
...
3. Quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên thấy quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Chánh án Tòa án không còn đủ điều kiện thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát để kiến nghị với Chánh án Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và áp dụng thủ tục chung để giải quyết vụ án.
Nếu Chánh án Tòa án đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn không hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thì Kiểm sát viên tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án theo quy định tại Chương XXXI Bộ luật Tố tụng hình sự.
4. Trường hợp vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn ở giai đoạn điều tra, truy tố nhưng đến giai đoạn xét xử, Chánh án Tòa án không tiếp tục áp dụng thủ tục rút gọn mà Kiểm sát viên thấy việc không áp dụng thủ tục rút gọn của Chánh án Tòa án là không đúng pháp luật thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát để kiến nghị với Chánh án Tòa án.
Như vậy, việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn phúc thẩm vụ án hình sự của Kiểm sát viên được thực hiện như những quy định trên.
Việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được áp dụng theo thủ tục rút gọn khi có những điều kiện nào?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 456 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được quy định như sau:
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
1. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện:
a) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú;
b) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
d) Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.
2. Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện:
a) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo;
b) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo.
Như vậy, việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được áp dụng theo thủ tục rút gọn khi có một trong những điều kiện sau:
- Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo;
- Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Thuế có phải là một khoản nộp bắt buộc? Trách nhiệm của người nộp thuế trong việc nộp tiền thuế là gì?
- Hợp tác xã có phải đối tượng được Nhà nước hỗ trợ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hay không?
- Hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được xây dựng để làm gì? Thông tin trong hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được điều chỉnh khi nào?
- Viên chức lý lịch tư pháp hạng I, hạng II, hạng III có nhiệm vụ và tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ thế nào?
- Mã số thông tin của công trình xây dựng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng được khởi tạo khi nào?