Người đang chấp hành hình phạt tù mà áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì sẽ tính thời gian chấp hành án phạt còn lại như thế nào?

Tôi là cán bộ quản lý trại giam. Tôi muốn hỏi trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù mà nhận thấy có dấu hiệu bệnh tâm thần thì có được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hay không? Nếu được, ai có thẩm quyền áp dụng? Vậy thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại của người đó sẽ được tính như thế nào? Trong trường hợp đang áp dụng bắt buộc chữa bệnh mà người đó trốn thoát hoặc chết đi thì coi như chấm dứt thời gian thi hành án phạt tù đúng không?

Người đang chấp hành hình phạt tù có thể áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh không?

Người đang chấp hành hình phạt tù có thể áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh không?

Người đang chấp hành hình phạt tù có thể áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh không?

Đề nghị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn thi hành án theo quy định tại Điều 6 Nghị định 64/2011/NĐ-CP cụ thể như sau:

- Trường hợp người bị kết án phạt tù đang thi hành án tại Trại giam hoặc Trại tạm giam mà có nghi ngờ họ bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì Giám thị Trại giam, Giám thị Trại tạm giam đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi có Trại giam hay Trại tạm giam đang giam giữ người bị kết án tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với họ và quyết định việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

- Trường hợp người bị kết án phạt tù đang thi hành án tại Nhà tạm giữ mà có nghi ngờ họ bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh để đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với họ và quyết định việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Bên cạnh đó, Điều 452 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 cũng có quy định về áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người đang chấp hành án phạt tù như sau:

- Trường hợp có căn cứ cho rằng người đang chấp hành án phạt tù mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Trại giam, Trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh đề nghị Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành án phạt tù trưng cầu giám định pháp y tâm thần.

- Căn cứ kết luận giám định pháp y tâm thần, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án đang chấp hành án phạt tù ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp hành án phạt tù nếu không có lý do để miễn chấp hành hình phạt tù.

Có thể thấy, trong trường hợp cần thiết, nếu có nghi ngờ người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì cá nhân, tổ chức có thẩm quyền được phép đề nghị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với những đối tượng này.

Thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người đang chấp hành hình phạt tù thuộc về ai?

Điều kiện và thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh theo quy định tại Điều 447 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 cụ thể như sau:

"1. Khi có căn cứ cho rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 của Bộ luật hình sự thì tuỳ từng giai đoạn tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải trưng cầu giám định pháp y tâm thần.
2. Căn cứ kết luận giám định pháp y tâm thần, Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn xét xử và thi hành án."

Theo đó, trong giai đoạn thi hành án, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với đối tượng cần thiết.

Đang chấp hành hình phạt tù mà áp dụng bắt buộc chữa bệnh thì thời gian thi hành án quy định như thế nào?

Tại Điều 49 Bộ luật hình sự 2015 quy định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh như sau:

"Điều 49. Bắt buộc chữa bệnh
1. Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 của Bộ luật này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.
2. Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt, thì người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt.
Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù."

Theo đó, khi người đang chấp hành án phạt tù bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

Người chấp hành hình phạt tù trốn thoát hoặc chết đi thì có xem như chấm dứt hình phạt tù không?

(1) Giải quyết trường hợp người bị bắt buộc chữa bệnh trốn: theo quy định tại Điều 10 Nghị định 64/2011/NĐ-CP

Khi có người bị bắt buộc chữa bệnh trốn, cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần phải lập biên bản và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và gia đình của người bị bắt buộc chữa bệnh biết để phối hợp truy tìm; đồng thời, phải chủ trì tổ chức ngay các biện pháp để truy tìm như đối với người bị bệnh tâm thần khác và báo cho cơ quan Công an cấp tỉnh nơi có cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần biết để cùng phối hợp truy tìm.

(2) Giải quyết trường hợp người bị bắt buộc chữa bệnh chết: theo quy định tại Điều 11 Nghị định 64/2011/NĐ-CP

- Trường hợp người bị bắt buộc chữa bệnh chết, Thủ trưởng cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần đóng đến thực hiện các biện pháp theo quy định của pháp luật để xác định nguyên nhân chết; đồng thời, thông báo cho thân nhân người chết, thông báo cho cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và Viện Kiểm sát, Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; làm thủ tục khai tử với chính quyền cơ sở. Trường hợp người bị bắt buộc chữa bệnh chết là người nước ngoài, cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần phải thông báo cho Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an hoặc Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao để thông báo cho cơ quan đại diện của nước mà người đó mang quốc tịch.

- Sau khi được cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần đóng đồng ý, cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần tổ chức việc mai táng theo quy định chung. Sau khi tổ chức việc mai táng, cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần phải gửi thông báo cho Viện Kiểm sát hoặc Tòa án đã ra quyết định bắt buộc chữa bệnh.

- Trường hợp thân nhân của người bị bắt buộc chữa bệnh đề nghị cho nhận tử thi về mai táng và cam kết tự chịu chi phí, chấp hành các quy định của pháp luật về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường thì cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần lập biên bản bàn giao tử thi cho họ.

Như vậy, trường hợp người chấp hành hình phạt tù bắt buộc chữa bệnh bỏ trốn thì cơ quan chức năng phối hợp cùng gia đình của người bị bắt buộc chữa bệnh để tìm. Trường hợp người đó chết, việc tổ chức thông báo, mai táng được thực hiện theo quy định trên. Có thể thấy, trong cả hai trường hợp đều không dẫn đến hệ quả chấm dứt hình phạt tù.

Hình phạt tù
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh
Căn cứ pháp lý
MỚI NHẤT
Pháp luật
Tính hình phạt tù của bản án có nhiều tội danh như thế nào? Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi xem xét quyết định hình phạt tù là gì?
Pháp luật
Bắt buộc chữa bệnh trong pháp luật hình sự nghĩa là gì? Trường hợp nào phải thực hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh?
Pháp luật
Thời gian bắt buộc chữa bệnh có được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù không? Hồ sơ đưa người vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh gồm những gì?
Pháp luật
Người chấp hành biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trốn viện thì ai sẽ chịu trách nhiệm lập biên bản sự việc và báo cáo lãnh đạo?
Pháp luật
Cơ quan nào có trách nhiệm đưa người bị áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và cơ sở bắt buộc chữa bệnh?
Pháp luật
Người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần khi đang điều trị bệnh thì cần xử lý ra sao?
Pháp luật
Chủ hộ kinh doanh đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh nhưng hiện nay đang chấp hành hình phạt tù thì có bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hay không?
Pháp luật
Áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người đang chấp hành án phạt tù được quy định như thế nào?
Nếu phạm một tội danh 20 năm tù và một tội danh 15 năm tù thì tổng hình phạt là 35 năm tù có đúng không?
Mức hình phạt tù cao nhất trong trường hợp phạm nhiều tội là bao nhiêu? Nếu phạm một tội danh 20 năm tù và một tội danh 15 năm tù thì tổng hình phạt là 35 năm tù có đúng không?
Pháp luật
Quy trình áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự được tiến hành thế nào?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Hình phạt tù
3,628 lượt xem
TÌM KIẾM LIÊN QUAN
Hình phạt tù Biện pháp bắt buộc chữa bệnh

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Hình phạt tù Xem toàn bộ văn bản về Biện pháp bắt buộc chữa bệnh

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào