Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai khi thực hiện nhiệm vụ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
- Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai khi thực hiện nhiệm vụ bị xử lý kỷ luật như thế nào?
- Nguyên tắc xử lý kỷ luật đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được quy định ra sao?
- Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai khi thực hiện nhiệm vụ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai khi thực hiện nhiệm vụ bị xử lý kỷ luật như thế nào?
Theo Điều 23 Thông tư 16/2020/TT-BQP quy định như sau:
Báo cáo sai, báo cáo không kịp thời, không báo cáo
1. Báo cáo sai, báo cáo không kịp thời, không báo cáo nhằm lừa dối cấp trên, bao che, trốn tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho người khác thì bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo.
2. Nếu vi phạm một trong các trường hợp sau thì bị kỷ luật từ hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm đến giáng chức, cách chức:
a) Đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm;
b) Gây ảnh hưởng đến việc không hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị hoặc ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự người khác;
c) Bản thân đang thực hiện nhiệm vụ quan trọng;
d) Trong khu vực có tình hình an ninh chính trị mất ổn định.
Theo đó, sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai khi thực hiện nhiệm vụ nhằm lừa dối cấp trên, bao che, trốn tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho người khác thì bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo.
Bên cạnh đó, sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam còn có thể bị kỷ luật từ hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm đến giáng chức, cách chức trong trường hợp:
- Đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng đến việc không hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị hoặc ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự người khác;
- Bản thân đang thực hiện nhiệm vụ quan trọng;
- Trong khu vực có tình hình an ninh chính trị mất ổn định.\
Tội báo cáo sai (Hình từ Internet)
Nguyên tắc xử lý kỷ luật đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được quy định ra sao?
Theo Điều 4 Thông tư 16/2020/TT-BQP, nguyên tắc xử lý kỷ luật đối với quân nhân được quy định như sau:
- Mọi vi phạm kỷ luật phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh; hậu quả do vi phạm kỷ luật gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
- Việc xử lý vi phạm kỷ luật được tiến hành nhanh chóng, chính xác, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật.
- Việc xử phạt vi phạm kỷ luật phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
- Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm của quân nhân trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật; không áp dụng các hình thức kỷ luật khác thay cho hình thức kỷ luật được pháp luật quy định.
- Không áp dụng hình thức kỷ luật tước danh hiệu quân nhân và buộc thôi việc đối với nữ quân nhân khi mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
- Không áp dụng hình thức kỷ luật giáng cấp bậc quân hàm đối với quân nhân đang giữ cấp bậc quân hàm thiếu úy.
- Khi xử lý kỷ luật, ngoài hình thức kỷ luật đối với từng hành vi vi phạm, nếu vi phạm gây thiệt hại về vật chất, người vi phạm còn phải bồi thường. Tài sản, tiền, vật chất do hành vi vi phạm mà có, phải được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
- Mỗi hành vi vi phạm kỷ luật chỉ xử lý một hình thức kỷ luật; nếu cùng một lần vi phạm kỷ luật mà người vi phạm thực hiện nhiều hành vi vi phạm khác nhau thì phải xem xét, kết luận, làm rõ mức độ vi phạm và hình thức kỷ luật đối với từng hành vi vi phạm nhưng chỉ áp dụng hình thức kỷ luật chung cho các hành vi vi phạm và không vượt quá hình thức kỷ luật của hành vi có mức xử lý kỷ luật cao nhất.
Trường hợp xử lý nhiều hình thức kỷ luật (hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm với cách chức hoặc giáng chức) do cấp có thẩm quyền quyết định.
- Người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp phải chịu trách nhiệm về tình hình vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật của quân nhân thuộc quyền; tùy tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả gây ra của vụ việc và mức độ liên quan đến trách nhiệm của người chỉ huy trực tiếp và trên một cấp để xác định hình thức kỷ luật theo quy định tại Thông tư này.
- Người thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật có dấu hiệu tội phạm, thì cơ quan, đơn vị không giảm quân số quản lý mà chuyển hồ sơ vi phạm sang Cơ quan điều tra trong Quân đội để xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bị tòa án xét xử và tuyên phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì chỉ giải quyết chế độ, chính sách khi đã có quyết định thi hành án của Tòa án.
Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai khi thực hiện nhiệm vụ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Theo Điều 408 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:
Tội báo cáo sai
1. Người nào cố ý báo cáo sai trong hoạt động quân sự gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong tình trạng khẩn cấp;
d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Theo đó, sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai khi thực hiện nhiệm vụ gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ngoài ra, sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam cố ý báo cáo sai mà thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Trong chiến đấu;
- Trong khu vực có chiến sự;
- Trong tình trạng khẩn cấp;
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Thuế có phải là một khoản nộp bắt buộc? Trách nhiệm của người nộp thuế trong việc nộp tiền thuế là gì?
- Hợp tác xã có phải đối tượng được Nhà nước hỗ trợ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hay không?
- Hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được xây dựng để làm gì? Thông tin trong hệ thống thông tin về hoạt động xây dựng được điều chỉnh khi nào?
- Viên chức lý lịch tư pháp hạng I, hạng II, hạng III có nhiệm vụ và tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ thế nào?
- Mã số thông tin của công trình xây dựng trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng được khởi tạo khi nào?