Thông điệp dữ liệu có được thể hiện dưới hình thức hợp đồng điện tử không? Người khởi tạo thông điệp dữ liệu có phải là người gửi thông điệp dữ liệu?
Thông điệp dữ liệu có được thể hiện dưới hình thức hợp đồng điện tử không?
Căn cứ Điều 7 Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định như sau:
Hình thức thể hiện của thông điệp dữ liệu
1. Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức văn bản điện tử, tài liệu điện tử, chứng thư điện tử, chứng từ điện tử, hợp đồng điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và hình thức trao đổi dữ liệu điện tử khác theo quy định của pháp luật.
2. Thông điệp dữ liệu được tạo ra, phát sinh trong quá trình giao dịch hoặc được chuyển đổi từ văn bản giấy.
Như vậy, theo quy định trên, thông điệp dữ liệu có thể được thể hiện dưới hình thức hợp đồng điện tử hoặc các hình thức khác.
Theo đó, tại khoản 16 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử 2023 giải thích hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Thông điệp dữ liệu có được thể hiện dưới hình thức hợp đồng điện tử không? Người khởi tạo thông điệp dữ liệu có phải là người gửi thông điệp dữ liệu? (Hình từ Internet)
Người khởi tạo thông điệp dữ liệu có phải là người gửi thông điệp dữ liệu đó không?
Người khởi tạo thông điệp dữ liệu được quy định tại Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2023 như sau:
Người khởi tạo thông điệp dữ liệu
1. Người khởi tạo thông điệp dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo hoặc gửi một thông điệp dữ liệu trước khi thông điệp dữ liệu đó được lưu trữ nhưng không bao gồm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu.
...
Như vậy, theo quy định trên, người khởi tạo thông điệp dữ liệu có thể là người gửi một thông điệp dữ liệu trước khi thông điệp dữ liệu đó được lưu trữ hoặc có thể là người tạo thông điệp dữ liệu.
Theo đó, việc xác định người khởi tạo một thông điệp dữ liệu trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác được quy định như sau:
- Thông điệp dữ liệu được xem là của người khởi tạo nếu được gửi bởi người khởi tạo thông điệp dữ liệu, người đại diện của người khởi tạo hoặc bởi một hệ thống thông tin được thiết lập để hoạt động tự động do người khởi tạo chỉ định;
- Người nhận có thể coi thông điệp dữ liệu là của người khởi tạo nếu đã áp dụng các phương pháp xác minh được người khởi tạo chấp thuận và cho kết quả thông điệp dữ liệu đó là của người khởi tạo;
- Kể từ thời điểm người nhận biết có lỗi kỹ thuật hoặc nhận được thông báo từ người khởi tạo rằng thông điệp dữ liệu được gửi do lỗi kỹ thuật và đã sử dụng các phương pháp xác minh lỗi được người khởi tạo chấp thuận thì không áp dụng quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
Việc nhận thông điệp dữ liệu trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác được quy định thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 16 Luật Giao dịch điện tử 2023, việc nhận thông điệp dữ liệu trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác được quy định như sau:
(1) Người nhận được xem là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu được nhập vào hệ thống thông tin do người đó chỉ định và có thể truy cập được;
(2) Người nhận có quyền coi mỗi thông điệp dữ liệu nhận được là một thông điệp dữ liệu độc lập, trừ trường hợp thông điệp dữ liệu đó là bản sao của một thông điệp dữ liệu khác mà người nhận biết hoặc buộc phải biết thông điệp dữ liệu đó là bản sao;
(3) Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo có yêu cầu hoặc thỏa thuận với người nhận về việc người nhận phải gửi cho mình thông báo xác nhận khi nhận được thông điệp dữ liệu thì người nhận phải thực hiện đúng yêu cầu hoặc thỏa thuận này;
(4) Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã tuyên bố thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận, thông điệp dữ liệu đó được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông báo của người nhận xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó;
(5) Trường hợp người khởi tạo đã gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo xác nhận, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này, thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi thông báo xác nhận; nếu người khởi tạo vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời gian đã ấn định thì người khởi tạo có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.
Theo đó, người nhận thông điệp dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc người đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo thông điệp dữ liệu nhưng không bao gồm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Thông tư 50 2024 quy định ngân hàng không gửi tin nhắn SMS thư điện tử có chứa link cho khách hàng từ ngày 1 1 2025?
- Thông tư 36/2024 quy định về tổ chức, quản lý hoạt động vận tải bằng xe ô tô và hoạt động của bến xe, bãi đỗ xe thế nào?
- Mẫu bản nhận xét đánh giá cán bộ 3 năm gần nhất? Cách viết bản nhận xét đánh giá cán bộ 3 năm gần nhất chi tiết?
- Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng bao gồm các thông tin nào về dự án đầu tư xây dựng?
- Đu trend nhìn lên bầu trời sẽ thấy vì tinh tú có bị xử phạt hành chính không? Có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?